Home Kiến Thức Kinh Tế Học European Economic and Monetary Union (EMU) là gì?

European Economic and Monetary Union (EMU) là gì?

0

Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) là gì?

Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) kết hợp một số quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu (EU) thành một hệ thống kinh tế gắn kết. Nó là sự kế thừa của Hệ thống Tiền tệ Châu Âu (EMS). Lưu ý rằng có sự khác biệt giữa Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) gồm 19 thành viên và Liên minh Châu Âu lớn hơn (EU) có 27 quốc gia thành viên.

Còn được gọi là Khu vực đồng tiền chung châu Âu, Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) là một cái ô khá rộng, theo đó một nhóm chính sách đã được ban hành nhằm mục đích hội tụ kinh tế và thương mại tự do giữa các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu. Sự phát triển của EMU diễn ra thông qua một quá trình ba giai đoạn, với giai đoạn thứ ba bắt đầu việc áp dụng đồng tiền chung euro thay cho các đồng tiền quốc gia trước đây. Điều này đã được hoàn thành bởi tất cả các thành viên EU ban đầu, ngoại trừ Vương quốc Anh và Đan Mạch, những người đã chọn không áp dụng đồng euro. Vương quốc Anh sau đó đã rời EMU vào năm 2020 sau cuộc trưng cầu dân ý về Brexit.

Tóm tắt ý kiến chính

  • Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) liên quan đến việc phối hợp các chính sách kinh tế và tài khóa, một chính sách tiền tệ chung và đồng tiền chung, đồng euro giữa 19 quốc gia Eurozone.
  • Quyết định thành lập EMU đã được Hội đồng Châu Âu thông qua tại thành phố Maastricht của Hà Lan vào tháng 12 năm 1991 và sau đó được lưu giữ trong Hiệp ước về Liên minh Châu Âu (Hiệp ước Maastricht).
  • Năm 2002 chứng kiến sự ra đời của đồng tiền chung euro cuối cùng đã thay thế đồng tiền quốc gia của hầu hết các nước thành viên EU.

Lịch sử của Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU)

Những nỗ lực đầu tiên để thành lập một Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu bắt đầu sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1929, Gustav Stresemann, tại một cuộc họp của Hội Quốc Liên, đã hỏi, “Đồng tiền Châu Âu, con tem Châu Âu mà chúng ta đang ở đâu. nhu cầu?” Tuy nhiên, lời hùng biện cao cả của Stresemann nhanh chóng trở thành điên rồ, khi chỉ hơn một tháng sau, sự sụp đổ của Phố Wall năm 1929 đánh dấu sự khởi đầu mang tính biểu tượng của cuộc Đại suy thoái, không chỉ làm trật bánh nói về một đồng tiền chung, mà nó còn chia rẽ châu Âu về mặt chính trị và mở đường. cho Chiến tranh thế giới thứ hai.

Lịch sử hiện đại của EMU được khơi lại bằng bài phát biểu của Robert Schuman, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp vào thời điểm đó, vào ngày 9 tháng 5 năm 1950, sau này được gọi là Tuyên bố Schuman. Schuman cho rằng cách duy nhất để đảm bảo hòa bình ở châu Âu, vốn đã bị chia cắt hai lần trong ba mươi năm bởi các cuộc chiến tranh tàn khốc, là gắn kết châu Âu như một thực thể kinh tế duy nhất: “Việc gộp sản xuất than và thép … sẽ thay đổi số phận trong số những khu vực từ lâu đã được dành cho việc sản xuất bom, đạn của chiến tranh, trong đó họ là nạn nhân thường xuyên nhất. ” Bài phát biểu của ông đã dẫn đến Hiệp ước Paris năm 1951 thành lập Cộng đồng Than và Thép châu Âu (ECSC) giữa các bên ký hiệp ước Bỉ, Pháp, Đức, Ý, Luxembourg và Hà Lan.

ECSC được hợp nhất theo Hiệp ước Rome thành Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC). Hiệp ước Paris không phải là một hiệp ước vĩnh viễn và sẽ hết hiệu lực vào năm 2002. Để đảm bảo một liên minh lâu dài hơn, các chính trị gia châu Âu đã đề xuất các kế hoạch trong những năm 1960 và 1970, bao gồm cả Kế hoạch Werner, nhưng trên toàn thế giới, gây mất ổn định các sự kiện kinh tế, như sự kết thúc của thỏa thuận tiền tệ Bretton Woods và các cú sốc về dầu mỏ và lạm phát trong những năm 1970 đã làm trì hoãn các bước cụ thể để hội nhập châu Âu.

Năm 1988, Jacques Delors, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu, được yêu cầu triệu tập một ủy ban đột xuất gồm các thống đốc ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên để đề xuất một kế hoạch cụ thể nhằm tiếp tục hội nhập kinh tế. Báo cáo của Delors đã dẫn đến việc thành lập Hiệp ước Maastricht vào năm 1992. Hiệp ước Maastricht chịu trách nhiệm về việc thành lập Liên minh Châu Âu.

Một trong những ưu tiên của Hiệp ước Maastricht là chính sách kinh tế và sự hội tụ của các nền kinh tế quốc gia thành viên EU. Vì vậy, hiệp ước đã thiết lập một mốc thời gian cho việc thành lập và thực hiện EMU. EMU bao gồm một liên minh kinh tế và tiền tệ chung, một hệ thống ngân hàng trung ương và một loại tiền tệ chung.

Vào năm 1998, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) được thành lập và vào cuối năm tỷ giá chuyển đổi giữa các đồng tiền của các quốc gia thành viên đã được cố định, mở đầu cho sự ra đời của đồng tiền chung euro, bắt đầu được lưu hành vào năm 2002.

Các tiêu chí hội tụ đối với các quốc gia quan tâm đến việc gia nhập EMU bao gồm ổn định giá cả hợp lý, tài chính công bền vững và có trách nhiệm, lãi suất hợp lý và có trách nhiệm, tỷ giá hối đoái ổn định.

Liên minh tiền tệ châu Âu và cuộc khủng hoảng nợ có chủ quyền châu Âu

Việc chấp nhận đồng euro cấm tính linh hoạt của tiền tệ, do đó không quốc gia nào đã cam kết có thể tự in tiền của mình để trả nợ chính phủ hoặc thâm hụt, hoặc cạnh tranh với các đồng tiền châu Âu khác. Mặt khác, liên minh tiền tệ của châu Âu không phải là liên minh tài khóa, có nghĩa là các quốc gia khác nhau có cấu trúc thuế và ưu tiên chi tiêu khác nhau. Do đó, tất cả các quốc gia thành viên đều có thể vay bằng đồng euro với lãi suất thấp trong thời kỳ trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng lợi tức trái phiếu không phản ánh mức độ tín nhiệm khác nhau của các quốc gia thành viên.

Hy Lạp là một ví dụ về những thách thức trong EMU

Đã có một số sự kiện xảy ra với các quốc gia thành viên khác nhau đã gây ra căng thẳng cho sự ổn định và tương lai của đồng tiền chung. Hy Lạp, có lẽ, là ví dụ điển hình nhất về những thách thức trong EMU. Năm 2009, Hy Lạp tiết lộ rằng họ đã giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của thâm hụt kể từ khi áp dụng đồng euro vào năm 2001, và quốc gia này đã phải hứng chịu một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử gần đây. Hy Lạp đã chấp nhận hai gói cứu trợ từ EU trong 5 năm, và trong thời gian ngắn nếu rời khỏi EMU, các gói cứu trợ trong tương lai sẽ là cần thiết để Hy Lạp tiếp tục thanh toán cho các chủ nợ của mình.

Thâm hụt ban đầu của Hy Lạp là do nước này không thu được đủ nguồn thu từ thuế, cùng với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp hiện tại ở Hy Lạp tính đến tháng 4 năm 2019 là 18%. Vào tháng 7 năm 2015, các quan chức Hy Lạp đã công bố các biện pháp kiểm soát vốn và một kỳ nghỉ ngân hàng và hạn chế số lượng euro có thể được chuyển đi mỗi ngày.

EU đã đưa ra cho Hy Lạp một tối hậu thư: chấp nhận các biện pháp thắt lưng buộc bụng nghiêm ngặt, mà nhiều người Hy Lạp cho rằng đã gây ra khủng hoảng ngay từ đầu, hoặc rời khỏi EMU. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2015, Hy Lạp đã bỏ phiếu bác bỏ các biện pháp thắt lưng buộc bụng của EU, làm dấy lên đồn đoán rằng Hy Lạp có thể thoát khỏi EMU. Nước này hiện có nguy cơ sụp đổ kinh tế hoặc buộc phải rút khỏi EMU và quay trở lại đồng tiền cũ của mình, đồng drachma.

Những nhược điểm của việc Hy Lạp quay trở lại đồng drachma bao gồm khả năng tháo chạy vốn và mất lòng tin vào đồng tiền mới bên ngoài Hy Lạp. Chi phí nhập khẩu, vốn phụ thuộc rất nhiều vào Hy Lạp, sẽ tăng đáng kể khi sức mua của đồng drachma giảm so với đồng euro. Ngân hàng trung ương mới của Hy Lạp có thể bị cám dỗ in tiền để duy trì các dịch vụ cơ bản, điều này có thể dẫn đến lạm phát nghiêm trọng hoặc trong trường hợp xấu nhất là siêu lạm phát. Thị trường chợ đen và các dấu hiệu khác của một nền kinh tế thất bại sẽ xuất hiện. Mặt khác, rủi ro lây nhiễm có thể được hạn chế vì nền kinh tế Hy Lạp chỉ chiếm 2% trong nền kinh tế Khu vực đồng tiền chung châu Âu.

Mặt khác, nếu nền kinh tế Hy Lạp phục hồi hoặc phát triển mạnh sau khi rời EMU và châu Âu áp đặt chế độ thắt lưng buộc bụng, các quốc gia khác, chẳng hạn như Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, có thể đặt câu hỏi về thắt lưng buộc bụng của đồng euro và cũng sẽ chuyển sang rời khỏi EMU.

Tính đến năm 2020, Hy Lạp vẫn ở trong EMU, mặc dù căng thẳng chống Hy Lạp đang gia tăng ở Đức, điều này có thể góp phần làm gia tăng căng thẳng trong EU và EMU.

Nguồn tham khảo: investmentopedia