Mức độ Đòn bẩy Tài chính – DFL là gì?
Mức độ đòn bẩy tài chính (DFL) là tỷ lệ đòn bẩy đo lường mức độ nhạy cảm của thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) của một công ty đối với những biến động trong thu nhập hoạt động của công ty do những thay đổi trong cấu trúc vốn của công ty. Mức độ đòn bẩy tài chính (DFL) đo lường tỷ lệ phần trăm thay đổi trong EPS đối với một đơn vị thay đổi trong thu nhập hoạt động, còn được gọi là thu nhập trước lãi vay và thuế (EBIT).
Tỷ lệ này chỉ ra rằng mức độ đòn bẩy tài chính càng cao thì thu nhập càng biến động. Vì lãi suất thường là một khoản chi phí cố định, nên đòn bẩy sẽ phóng đại lợi nhuận và EPS. Điều này là tốt khi thu nhập từ hoạt động kinh doanh đang tăng lên, nhưng nó có thể là một vấn đề khi thu nhập hoạt động đang chịu áp lực.
Công thức cho DFL là
DFL = % thay đổi EBIT % thay đổi trong EPS
DFL cũng có thể được biểu diễn bằng phương trình dưới đây:
DFL = EBIT – EBIT lãi vay
Mức độ đòn bẩy tài chính (DFL)
Mức độ đòn bẩy tài chính cho bạn biết điều gì?
DFL càng cao, thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) càng biến động. Vì lãi vay là một khoản chi phí cố định nên đòn bẩy sẽ phóng đại lợi nhuận và EPS, điều này rất tốt khi thu nhập hoạt động tăng nhưng có thể là một vấn đề trong thời điểm kinh tế khó khăn khi thu nhập hoạt động chịu nhiều áp lực.
DFL là vô giá trong việc giúp một công ty đánh giá số nợ hoặc đòn bẩy tài chính mà công ty nên lựa chọn trong cấu trúc vốn của mình. Nếu thu nhập từ hoạt động kinh doanh tương đối ổn định, thì thu nhập và EPS cũng sẽ ổn định và công ty có thể đủ khả năng gánh một khoản nợ đáng kể. Tuy nhiên, nếu công ty hoạt động trong lĩnh vực có thu nhập từ hoạt động kinh doanh khá biến động, thì có thể cần thận trọng để hạn chế nợ ở mức dễ quản lý.
Việc sử dụng đòn bẩy tài chính rất khác nhau tùy theo ngành và lĩnh vực kinh doanh. Có nhiều lĩnh vực công nghiệp trong đó các công ty hoạt động với mức độ đòn bẩy tài chính cao. Các cửa hàng bán lẻ, hãng hàng không, cửa hàng tạp hóa, công ty tiện ích và tổ chức ngân hàng là những ví dụ điển hình. Thật không may, việc sử dụng quá nhiều đòn bẩy tài chính của nhiều công ty trong các lĩnh vực này đã đóng một vai trò quan trọng trong việc buộc rất nhiều công ty trong số họ phải nộp đơn phá sản theo Chương 11.
Ví dụ bao gồm RH Macy (1992), Trans World Airlines (2001), Great Atlantic & Pacific Tea Co (A&P) (2010) và Midwest Generation (2012). Hơn nữa, việc sử dụng quá nhiều đòn bẩy tài chính là thủ phạm chính dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ từ năm 2007 đến năm 2009. Sự sụp đổ của Lehman Brothers (2008) và một loạt các tổ chức tài chính có sử dụng đòn bẩy tài chính cao khác là những ví dụ điển hình cho những phân nhánh tiêu cực có liên quan với việc sử dụng cơ cấu vốn có khả năng vay nợ cao.
Tóm tắt ý chính
- Mức độ đòn bẩy tài chính (DFL) là một tỷ lệ đòn bẩy đo lường mức độ nhạy cảm của thu nhập trên mỗi cổ phiếu của một công ty đối với những biến động trong thu nhập hoạt động do những thay đổi trong cấu trúc vốn của công ty đó.
- Tỷ lệ này chỉ ra rằng mức độ đòn bẩy tài chính càng cao thì thu nhập càng biến động.
- Việc sử dụng đòn bẩy tài chính rất khác nhau tùy theo ngành và lĩnh vực kinh doanh.
Ví dụ về cách sử dụng DFL
Hãy xem xét ví dụ sau để minh họa khái niệm. Giả sử công ty giả định BigBox Inc. có thu nhập hoạt động hoặc thu nhập trước lãi vay và thuế (EBIT) là 100 triệu đô la trong Năm 1, với chi phí lãi vay là 10 triệu đô la và có 100 triệu cổ phiếu đang lưu hành. (Để rõ ràng, chúng ta hãy bỏ qua ảnh hưởng của thuế vào lúc này.)
Do đó, EPS cho BigBox trong Năm 1 sẽ là: